Trong bức tranh kinh tế nông thôn Việt Nam, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi luôn hiện lên như những gam màu giàu bản sắc. Đất đai rộng mở, khí hậu đa dạng, nguồn tài nguyên bản địa phong phú đã nuôi dưỡng những sản phẩm nông nghiệp độc đáo, từ hương chè ngát xanh, hạt cà phê bừng nắng gió, đến quả vải, nhãn, mận, sơn tra, mắc ca… Mỗi sản phẩm không chỉ kết tinh từ thiên nhiên mà còn chứa đựng câu chuyện văn hóa, tập quán canh tác lâu đời, gắn bó với đời sống cộng đồng. Đây chính là nguồn tài nguyên kinh tế, văn hóa đặc biệt, nếu được khai thác đúng hướng, có thể trở thành chìa khóa mở ra sinh kế bền vững, nâng tầm giá trị cho bà con.

Trồng chè sạch của đồng bào Cao Lan ở bản Ven, xã Xuân Lương (Bắc Ninh). Ảnh: Văn Hưng
Bắc Ninh, vùng đất Kinh Bắc giàu truyền thống không chỉ được biết đến với làn điệu quan họ mượt mà mà còn là nơi sinh sống của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số. Trên những triền đồi, cánh đồng, vườn cây nơi đây, bà con gìn giữ và phát triển nhiều sản phẩm nông sản đặc trưng: sâm quý hiếm, vải thiều đỏ mọng, gà đồi Yên Thế, na, cam, bưởi. Ngoài ra, còn có gạo, rau an toàn, mỳ gạo, mật ong, rượu truyền thống cùng các sản phẩm thủ công tinh xảo như mây tre đan. Mỗi sản phẩm đều mang đậm dấu ấn của đất và người, vừa là sinh kế, vừa là niềm tự hào, góp phần tạo nên sức hút riêng của nông sản Bắc Ninh trên thị trường.
Những năm gần đây, nhờ sự vào cuộc đồng bộ của chính quyền, doanh nghiệp, hợp tác xã, công tác xúc tiến thương mại, kết nối tiêu thụ nông sản đã đạt nhiều kết quả tích cực. Nhiều sản phẩm đã hiện diện trong siêu thị, trên sàn thương mại điện tử, tại hội chợ quốc tế; nhiều chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ hình thành, tạo đầu ra ổn định và nâng cao giá trị. Các mô hình hợp tác xã kiểu mới áp dụng khoa học công nghệ, truy xuất nguồn gốc, cải tiến bao bì đang lan tỏa, giúp sản phẩm vùng cao dần tiếp cận những thị trường khó tính.
Tuy vậy, con đường đưa nông sản miền núi “vươn xa” vẫn đầy trở ngại: sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chất lượng chưa đồng bộ; hạn chế trong bảo quản, chế biến sâu; chưa tận dụng hết tiềm năng thương mại điện tử và marketing số. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, tiêu thụ nông sản không chỉ là câu chuyện cung, cầu đơn thuần, mà là bài toán tổng hợp: quy hoạch vùng trồng, tổ chức sản xuất, ứng dụng công nghệ, xây dựng thương hiệu, kết nối thị trường và truyền thông sản phẩm. Mỗi mắt xích yếu sẽ kéo theo hệ lụy cho cả chuỗi giá trị. Vì thế, cần có chiến lược đồng bộ, phát huy vai trò chính quyền, hợp tác xã, doanh nghiệp, chuyên gia và bà con.
Chính từ thực tiễn này, Báo Công Thương tổ chức chương trình Chính sách và Đối thoại với chủ đề: “Kết nối thị trường, nâng tầm nông sản vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi tỉnh Bắc Ninh”. Trong khuôn khổ chương trình, phóng viên đã có cuộc trao đổi cùng TS. Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế.

TS. Võ Trí Thành, chuyên gia kinh tế. Ảnh: Ngọc Hoa
Xu hướng tiêu dùng và cơ hội cho nông sản Bắc Ninh
- Thưa ông, từ sản xuất chuyển sang thị trường, xu hướng tiêu dùng đóng vai trò quyết định sự thành công của sản phẩm. Với kinh nghiệm nghiên cứu và tư vấn, ông nhận định thế nào về xu hướng tiêu dùng đối với nông sản vùng đồng bào dân tộc, đặc biệt là các sản phẩm đặc trưng như sâm, vải thiều, chè, mỳ gạo, mật ong của Bắc Ninh?
TS. Võ Trí Thành: Cá nhân tôi có mối duyên đặc biệt với vùng đất Bắc Giang cũ, nay đã sáp nhập với Bắc Ninh. Tôi từng sơ tán, từng đóng quân ở đây, ký ức tuổi thơ gắn với những sản phẩm như gà đồi Yên Thế, vải thiều Lục Ngạn. Những ký ức xa xưa đó lại liên hệ mật thiết với xu thế hiện đại là xu hướng tiêu dùng xanh, an toàn.
Người tiêu dùng ngày nay không chỉ mua sản phẩm, mà còn tìm kiếm trải nghiệm. Họ muốn thưởng thức sản phẩm, đồng thời được đóng góp cho cộng đồng. Hơn 90% khách du lịch được khảo sát mong muốn sự đóng góp ấy. Đó chính là lợi thế của nông sản vùng dân tộc: mỗi sản phẩm đều gắn với một câu chuyện, một tích chuyện đặc sắc, mang đậm hồn cốt của đồng bào. Khi kết hợp với xu hướng xanh, an toàn, giá trị nhân văn sẽ càng nổi bật.
Một xu thế nữa là sự trỗi dậy của tầng lớp trung lưu, giới trẻ Gen Z, Gen J ở cả Việt Nam và quốc tế. Đây là nhóm khách hàng quan tâm đến sản phẩm bền vững, bao trùm, đặt con người ở trung tâm. Như vậy, nông sản Bắc Ninh có thể hội tụ ba xu thế: xanh, an toàn; trải nghiệm, cảm xúc và phát triển bền vững, nhân văn. Nếu biết khai thác, Bắc Ninh hoàn toàn có thể đi theo bước các địa phương khác trong cả nước như Sơn La: từ một địa phương ít người biết đến, nay vươn lên trở thành điểm sáng trong tiêu thụ, xuất khẩu nông sản.
Tiêu chuẩn chất lượng là rào cản hay bàn đạp?
- Thưa ông, bên cạnh lợi thế thì những khó khăn phần nào xuất phát từ yêu cầu ngày càng cao của thị trường. Vậy, những tiêu chuẩn chất lượng hay chứng nhận nào là bắt buộc để nông sản đồng bào dân tộc, miền núi Bắc Ninh chinh phục được thị trường cao cấp trong và ngoài nước?
TS. Võ Trí Thành: Chúng ta có nền tảng tốt là sản phẩm gắn với văn hóa, lịch sử, thiên nhiên, đất trời. Nhưng sản phẩm không thể tự nhiên đến tay người tiêu dùng. Yếu tố then chốt là niềm tin. Người tiêu dùng cần bảo chứng. Bảo chứng ấy có thể đến từ tiêu chuẩn chất lượng, chứng nhận an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc hay chỉ dẫn địa lý. Mỗi thị trường lại có yêu cầu riêng nhue xuất khẩu sang Trung Quốc khác EU, Mỹ, Nhật hay Australia. Điều quan trọng là chứng chỉ phải thật, được công nhận và không bị làm giả. Vì vậy, ngoài việc xây dựng tiêu chuẩn, cần cơ chế bảo vệ, xử lý tranh chấp để duy trì niềm tin.
Có một câu chuyện vui nhưng rất thật là thời gian qua, nhiều lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo sở ngành đã trực tiếp livestream bán hàng, khẳng định chất lượng và mẫu mã sản phẩm của địa phương. Đây là minh chứng cho thấy vai trò “bảo chứng” không chỉ nằm trên giấy tờ, mà chính quyền đã đứng ra cam kết cùng bà con. Chính điều này làm gia tăng niềm tin, lan tỏa mạnh mẽ đến người tiêu dùng. Đó cũng là nền tảng để sản phẩm không chỉ bán được nhiều hơn, mà còn nâng cao vị thế của địa phương, thậm chí là cả quốc gia.
Ngoài ra, bảo chứng còn đến từ trải nghiệm thực tế, khi du khách, người tiêu dùng được tận mắt chứng kiến quy trình sản xuất, tận tay thưởng thức sản phẩm. Hiệu ứng ấy, nếu kết hợp với mạng xã hội và truyền thông, sẽ tạo sức lan tỏa cấp số nhân. Và trên hết, bảo chứng của chính quyền địa phương luôn là lời khẳng định mạnh mẽ nhất, tạo chỗ dựa vững chắc cho sản phẩm vươn xa.

Câu lạc bộ hát dân ca Sán Dìu xã Lục Ngạn luyện tập tại vườn vải của địa phương. Ảnh: Văn Hưng
Công nghệ và chuyển đổi số - chìa khóa xây dựng thương hiệu
- Ông vừa đề cập đến công nghệ và chuyển đổi số, livestream bán sản phẩm. Vậy hợp tác xã, doanh nghiệp và bà con Bắc Ninh có thể ứng dụng công nghệ ra sao để xây dựng thương hiệu và gia tăng hiệu quả cho sản phẩm?
TS. Võ Trí Thành: Thương hiệu không chỉ dừng lại ở cảm nhận. Quan trọng hơn, thương hiệu phải trở thành hành động. Người tiêu dùng yêu, tin và sẵn sàng mua, thậm chí trả giá cao hơn cho sản phẩm có thương hiệu. Đồng thời, thương hiệu còn giúp huy động nguồn lực, không chỉ là doanh thu, mà còn là vốn, công nghệ, kỹ năng, quan hệ hợp tác.
Ngày nay, công nghệ số phá bỏ rào cản đặc biệt là với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Internet, dữ liệu, nền tảng trực tuyến mở ra cơ hội tiếp cận thị trường và quảng bá thương hiệu mạnh mẽ. Bắc Ninh hoàn toàn có thể gắn sản phẩm truyền thống với kinh tế sáng tạo, công nghiệp văn hóa. Từ làn điệu quan họ, hình ảnh Kinh Bắc, đến các sản phẩm thủ công mỹ nghệ như tranh Đông Hồ, đồ gỗ Đồng Kỵ.
Ngoài ra, cần thay đổi cách quảng bá. Không chỉ giới thiệu sản phẩm, mà phải kể cả câu chuyện phía sau như: nguyên liệu, quy trình sản xuất, bao bì, đối tác. Mạng xã hội như TikTok, Facebook, YouTube là công cụ hiệu quả nếu biết kể chuyện hấp dẫn, ngắn gọn, giàu nhịp điệu.
Một điểm nữa là bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Đây là “lá chắn” bảo vệ giá trị thương hiệu lâu dài, tránh mất mát trong quá trình hội nhập. Các cơ quan chức năng cần hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đăng ký, bảo hộ nhãn hiệu, sáng chế, bí quyết để tạo nền tảng phát triển bền vững.
Nâng cao năng lực, mở rộng cơ hội
- Dưới góc độ chuyên gia, ông có khuyến nghị gì để giúp bà con dân tộc thiểu số, miền núi nói chung và tỉnh Bắc Ninh nói riêng nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp cận thị trường hiệu quả hơn?
TS. Võ Trí Thành: Tôi tin Bắc Ninh sẽ là một trong những tỉnh đi đầu. Chính quyền quyết liệt, doanh nghiệp đầy tâm huyết, khát vọng lớn, bà con giàu bản sắc. Về tổng thể, có ba điểm then chốt:
Thứ nhất, mở rộng cơ hội. Thị trường trong nước với gần trăm triệu dân đã là một tiềm năng lớn. Cùng với đó, hàng loạt hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết mở ra cánh cửa tới những thị trường toàn cầu.
Thứ hai, nâng cao năng lực. Đây là yêu cầu từ thể chế, bộ máy đến doanh nghiệp, quản trị và cả người lao động. Chỉ khi năng lực được nâng cao, cơ hội mới có thể trở thành hiện thực.
Thứ ba, tận dụng công nghệ. Công nghệ, đặc biệt là công nghệ số, đang làm thay đổi toàn diện lối sống, phương thức sản xuất, cách tiêu dùng, mô hình kinh doanh.
Ba yếu tố: năng lực, công nghệ và cơ hội nếu được kết hợp, sẽ tạo bước phát triển mạnh mẽ. Với nền tảng bản sắc văn hóa bản địa, Bắc Ninh hoàn toàn có thể hiện thực hóa điều này, đem lại lợi ích lớn cho doanh nghiệp, địa phương và bà con.
Ba khuyến nghị then chốt
- Trước khi kết thúc cuộc trao đổi, xin ông chia sẻ thật ngắn gọn những khuyến nghị then chốt để thúc đẩy tiêu thụ nông sản đồng bào Bắc Ninh trong 3 - 5 năm tới?
TS. Võ Trí Thành: Ngắn gọn, tôi có ba từ.
Thứ nhất, là tình yêu. Phải thực sự trân trọng giá trị, yêu sản phẩm, yêu người làm ra sản phẩm. Nếu thiếu tình yêu, mọi nỗ lực sẽ dễ hời hợt.
Thứ hai, là kết nối. Đó là kết nối có trách nhiệm, thông minh, khôn khéo giữa chính quyền, doanh nghiệp, bà con, công nghệ.
Thứ ba, là thương hiệu. Kết hợp văn hóa với công nghệ để xây dựng thương hiệu mạnh mẽ, bền vững, có khả năng bảo hộ lâu dài.
Nếu làm được ba điều ấy, tôi tin Bắc Ninh sẽ trở thành địa phương đi đầu trong phát triển sản phẩm đồng bào dân tộc, cả nông sản và thủ công mỹ nghệ, theo hướng mạnh mẽ, bền vững và mang lại nhiều lợi ích nhất.
- Trân trọng cảm ơn ông!