• :
  • :

Lạng Sơn đẩy mạnh sinh kế vùng cao qua Chương trình Mục tiêu quốc gia 1719

(16/12/2025)

Triển khai Chương trình MTQG 1719, Lạng Sơn đã đạt nhiều kết quả rõ nét trong phát triển sinh kế, hạ tầng và nâng cao đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Trong quá trình tổ chức thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (Chương trình MTQG 1719), Lạng Sơn đạt nhiều kết quả quan trọng về phát triển sinh kế, hạ tầng và hỗ trợ đồng bào dân tộc.

Ông Phạm Đức Huân - Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Lạng Sơn đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo Công Thương xung quanh vấn đề này.

Ông Phạm Đức Huân - Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Lạng Sơn

Ông Phạm Đức Huân - Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Lạng Sơn

Động lực phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số

– Thưa ông, trong năm qua, tỉnh Lạng Sơn đã triển khai Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 đạt được những kết quả nổi bật nào, đặc biệt là trong phát triển sinh kế cho đồng bào vùng cao?

Ông Phạm Đức Huân: Chương trình MTQG 1719 được Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh chỉ đạo quyết liệt và tổ chức triển khai đồng bộ trên toàn địa bàn. Tỉnh đã ban hành 18 văn bản chỉ đạo, thể hiện sự vào cuộc chủ động, xuyên suốt của các cấp. Công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện chương trình được tiến hành thường xuyên, giúp tháo gỡ khó khăn kịp thời cho cơ sở.

Về kết quả chung, tỷ lệ tiếp cận hạ tầng – dịch vụ thiết yếu của đồng bào được cải thiện rõ rệt. Cụ thể, 99,8% hộ dân vùng dân tộc thiểu số và miền núi được sử dụng điện; 98,5% dân cư nông thôn dùng nước hợp vệ sinh; 61/61 xã có đường đến trung tâm xã được bê tông hóa; 1.325/1.425 thôn có đường ô tô đến trung tâm thôn cứng hóa, đạt 91,25%.

Trong lĩnh vực giáo dục, tỷ lệ đến trường của học sinh vùng dân tộc thiểu số gần như tuyệt đối; 99,9% trẻ 5 tuổi và 99,97% học sinh tiểu học được đến lớp. Về y tế, 98% đồng bào tham gia BHYT, 90% phụ nữ mang thai được khám thai ít nhất 4 lần.

Các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị và hiệu quả bước đầu

- Tiểu dự án 2 - Dự án 3 về phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị được xem là trọng tâm của chương trình. Xin ông chia sẻ cụ thể hơn một số mô hình liên kết tiêu biểu tại các huyện và hiệu quả bước đầu của các mô hình này?

Ông Phạm Đức Huân: Tiểu dự án 2 của Dự án 3 là nội dung then chốt trong phát triển sinh kế cho đồng bào. Trong năm 2025, tỉnh đã triển khai 23 dự án phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị và 16 dự án hỗ trợ sản xuất cộng đồng, chủ yếu tập trung tại huyện Chi Lăng và Văn Lãng (cũ).

Tại Chi Lăng, toàn bộ 23 dự án đều tập trung vào phát triển sản xuất theo chuỗi, gắn với các sản phẩm đặc trưng của địa phương. Các mô hình này tạo liên kết giữa người dân – HTX – doanh nghiệp, giúp chuẩn hóa kỹ thuật canh tác, nâng cao chất lượng sản phẩm và đảm bảo đầu ra ổn định.

Tại Văn Lãng, 2 dự án cộng đồng cũng đang phát huy hiệu quả trong huy động người dân tham gia sản xuất tập trung, cải thiện thu nhập nhờ áp dụng đồng bộ kỹ thuật và hỗ trợ đầu vào.

Nhờ có nhiều chính sách dành cho vùng dân tộc đến nay 61/61 xã có đường đến trung tâm xã được bê tông hóa; 1.325/1.425 thôn có đường ô tô đến trung tâm thôn cứng hóa, đạt 91,25%.

Nhờ có nhiều chính sách dành cho vùng dân tộc đến nay 61/61 xã có đường đến trung tâm xã được bê tông hóa; 1.325/1.425 thôn có đường ô tô đến trung tâm thôn cứng hóa, đạt 91,25%.

Hiệu quả bước đầu được ghi nhận ở cả hai địa phương: sản xuất có tính liên kết cao hơn, giảm tình trạng manh mún; bà con tiếp cận được kỹ thuật mới; các mô hình cộng đồng giúp lan tỏa nhận thức và nâng cao năng lực sản xuất cho hộ dân tộc thiểu số.

Một số mô hình nổi bật là chuỗi chăn nuôi vịt – sản xuất vịt quay Lạng Sơn: 7 ha, 48 hộ; chuỗi hạt dẻ: 10 ha, 20 hộ; chuỗi thạch đen Tràng Định – Văn Quan: 50 ha, 103 hộ; chuỗi Hồng Vành Khuyên Hoàng Văn Thụ: 33 ha, 16 hộ; chuỗi Na Cai Kinh: 24 ha, 38 hộ. Tỉnh hiện có 229 mã vùng trồng (178 mã xuất khẩu, 51 mã nội địa) với tổng diện tích trên 1.200 ha, cùng 14 cơ sở đóng gói đạt chuẩn.

Tuy nhiên, tiến độ một số mô hình còn chậm do việc rà soát, lựa chọn mô hình hỗ trợ ở cấp xã triển khai muộn; đồng thời một số dự án phải điều chỉnh theo điều kiện thực tiễn và nhu cầu thực sự của người dân.

Tháo gỡ khó khăn

– Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai Chương trình MTQG 1719 tại địa phương vẫn còn gặp khó khăn gì, đặc biệt trong công tác giải ngân và lựa chọn mô hình sản xuất phù hợp?

Ông Phạm Đức Huân: Khó khăn lớn nhất hiện nay là tiến độ giải ngân, đặc biệt với nguồn vốn sự nghiệp. Bên cạnh đó, thủ tục đầu tư, phê duyệt mô hình phức tạp, nhất là đối với các nội dung sản xuất có điều kiện. Đối tượng thụ hưởng trùng lặp giữa các chương trình MTQG khác, khiến việc xác định hộ hỗ trợ phát sinh nhiều vướng mắc.

Thêm nữa, sau khi sắp xếp đơn vị hành chính, nhiều dự án được phân cấp cho cấp xã nhưng nguồn ngân sách xã không đủ đối ứng. Năm 2025 là năm đầu tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, đội ngũ cán bộ triển khai ở cơ sở còn hạn chế kinh nghiệm, dẫn đến lúng túng khi thực hiện.

Ngoài ra, một số quy định tại Nghị định, Thông tư vẫn còn bó hẹp nội dung chi hoặc chưa phù hợp thực tiễn, đặc biệt trong chi truyền thông, tư vấn, tổ chức mô hình sinh kế.

Về lựa chọn mô hình sản xuất, một số địa phương còn lúng túng trong xác định sản phẩm chủ lực; diện tích đất sản xuất manh mún cũng gây khó khăn trong phát triển mô hình theo chuỗi.

– Thời gian tới, Sở Dân tộc và Tôn giáo sẽ có những giải pháp trọng tâm nào để thúc đẩy các tiểu dự án, nhất là những dự án liên quan đến sinh kế, tạo việc làm bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số?

Ông Phạm Đức Huân: Trong thời gian tới, Sở tập trung vào bốn nhóm giải pháp trọng tâm nhằm gỡ nút thắt và nâng cao hiệu quả Chương trình 1719.

Thứ nhất, đẩy nhanh tiến độ giải ngân, rà soát lại các dự án sử dụng vốn sự nghiệp, đơn giản hóa quy trình, rút ngắn thời gian thẩm định, kiên quyết thực hiện theo nguyên tắc “không dàn trải, đầu tư trọng tâm – trọng điểm”. Các nội dung chậm sẽ được rà soát kỹ để điều chỉnh hoặc thay thế.

Thứ hai, nâng cao năng lực đội ngũ triển khai từ tỉnh đến cơ sở. Năm 2025, việc sắp xếp chính quyền hai cấp khiến nhiều cán bộ mới tiếp cận nhiệm vụ. Sở sẽ tăng cường tập huấn, hướng dẫn, và hỗ trợ trực tiếp cho các xã trong tổ chức dự án sinh kế.

Thứ ba, lựa chọn mô hình sản xuất phù hợp theo chuỗi giá trị, dựa trên lợi thế vùng miền. Sở sẽ phối hợp chặt chẽ với các xã để rà soát lại toàn bộ các mô hình, ưu tiên mô hình liên kết có doanh nghiệp, HTX đảm bảo đầu ra, tránh tình trạng manh mún, tự phát.

Thứ tư, tăng cường phối hợp liên ngành, đặc biệt với các ngành nông nghiệp, lao động, tài chính nhằm đồng bộ hóa chính sách. Cùng với đó là đẩy mạnh truyền thông trong vùng đồng bào, nâng cao nhận thức, phát huy vai trò người uy tín và cộng đồng trong triển khai các dự án.

- Xin cảm ơn ông!

Mục tiêu của tỉnh Lạng Sơn là bảo đảm sinh kế bền vững, giảm nghèo thực chất, nâng cao thu nhập cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần hoàn thành các mục tiêu Chương trình MTQG 1719 trong giai đoạn 2021 - 2025.